Page 132 - Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Ứng dụng công nghệ mới trong công trình xanh - lần thứ 9 (ATiGB 2024)
P. 132

th
               HỘI THẢO QUỐC TẾ ATiGB LẦN THỨ CHÍN - The 9  ATiGB 2024                                 123

                     NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM BIẾN DẠNG

                   CO NGÓT CỦA BÊ TÔNG TRONG ĐIỀU KIỆN

                                         KHÍ HẬU NÓNG KHÔ

                      EXPERIMENTAL STUDY ON SHRINKAGE

                                     STRAINS OF CONCRETE

                             IN HOT AND DRY ENVIRONMENT



                                            Nguyễn Khánh Hùng , Trần Thái Dương
                                                            1*
                                                                             1
                                    1 Khoa Kỹ thuật Công trình, Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai, Việt Nam
                                                            1*
                                                                           1
                                             Nguyen Khanh Hung , Tran Thai Duong
                                  1 Faculty of Civil Engineering, Lac Hong University, Dong Nai, Vietnam
                                                 *nguyenkhanhhung@lhu.edu.vn
                  Tóm tắt: Biến dạng co ngót có ảnh hưởng lớn đến khả   Abstract: A significant aspect influencing the workability
               năng làm việc của kết cấu bê tông. Nhiều mô hình dự đoán   of concrete structures is shrinkage deformation. Numerous
               biến dạng co ngót đã được phát triển dựa trên các tập dữ   shrinkage  deformation  prediction  models  have  been
               liệu  thực nghiệm  lớn,  tuy nhiên,  những  mô hình  này  vẫn   developed  from  large  experimental  data  sets,  however  the
               đưa ra các kết  quả không đồng nhất. Bài viết này nghiên   results of these models are still unpredictable. Within this
               cứu thực nghiệm biến dạng co ngót của bê tông trong môi   research, the shrinkage deformation of concrete under hot,
               trường  nóng  và  khô.  Các  mẫu  bê  tông  được  bảo  dưỡng   dry  conditions  is  investigated  experimentally.  Concrete
               trong môi trường kiểm soát với nhiệt độ 35±2°C và độ ẩm   specimens  were  cured  at  35±2°C  and  46±3%  RH  in  a
               46±3%. Biến dạng co ngót thực nghiệm đã được so sánh với   controlled  environment.  To  assess  the  models'  predictive
               ba  mô  hình  dự  đoán  co  ngót  khác  nhau,  cụ  thể  là  B3,   ability,  the  experimental  results  were  compared  to  three
               MC90-99,  và  GL2000,  nhằm  đánh  giá  khả  năng  dự  đoán   different  shrinkage  prediction  models:  B3,  MC90-99,  and
               của các mô hình. Giá trị dự đoán của các mô hình thể hiện   GL2000.  To  increase  accuracy,  the  estimated  values  of
               sự khác biệt với các giá trị thực nghiệm và cần điều chỉnh   these models must be modified because they differ from the
               để cải thiện độ chính xác. Mô hình GL2000 cho kết quả dự   experimental values. When compared to the other models,
               đoán tốt nhất so với các mô hình còn lại.   the GL2000 model gives the best prediction results.
                  Từ  khóa:  Bê  tông;  Biến  dạng  co  ngót;  Mô  hình  dự   Keywords:  Concrete;  Shrinkage  strain;  Prediction
               đoán; Môi trường nóng khô.                  model; Hot and dry environment.
                  1. ĐẶT VẤN ĐỀ                               ngày), nhưng biến dạng co ngót (tính toán lý thuyết)
                                                              cuối  cùng  ở  tuổi 36.500  ngày  cao  hơn  trong  trường
                  Các mô hình co ngót được sử dụng trong các tiêu   hợp  mô  hình  B3  (30%)  và  mô  hình  EC2-2  (14%).
               chuẩn cho thấy có những khác biệt lớn trong dự đoán   Thenier và cộng sự [4] tập trung vào nghiên cứu so
               của chúng khi ứng dụng thực tế [1]. Vinkler và Vítek   sánh  các  mô  hình  EC2-1,  ACI  209,  MC  2010,
               [2] đã nghiên cứu biến dạng co ngót khô của bê tông   GL2000 và kết quả thực nghiệm đo được trên hai loại
               C30/37 trên các mẫu hình hộp có tiết diện 800 × 800   mẫu (loại I–100 × 56 × 100 mm, loại II–300 × 300 ×
               mm với chiều dày khác nhau (200 mm, 400 mm và   800 mm) đối với bê tông thường (cường độ chịu nén
               800 mm) được bịt kín bốn mặt đến 300 ngày và so   trung bình 55 MPa). Ở tuổi 1300 ngày, các mô hình
               sánh  kết  quả  với  dự  đoán  của  nhiều  mô  hình  khác   EC2-1,  ACI  209  và  GL2000  dự  đoán  biến  dạng  co
               nhau (MC 2010, EC2-1, B4, B4s và ACI 209). Các   ngót của mẫu loại I với sai số nhỏ hơn 5%, sai số của
               mô hình có xu hướng dự đoán biến dạng co ngót cao   các  mô  hình  khác  khoảng  20%.  Trong  trường  hợp
               hơn thực tế. Dự đoán tổng thể tốt nhất cho mẫu dày   mẫu loại II, tất cả các mô hình phần lớn đều đánh giá
               200 mm đã đạt được theo MC 2010 và B4, cho mẫu   thấp biến dạng co ngót (40–65%). Giá trị biến dạng
               dày  400  mm  và  800  mm  theo  EC2-1.  Soška  và   co ngót dự đoán của mô hình GL2000 ở tuổi 18250
               Vráblík  [3]  đã  thực  hiện  so  sánh  lý  thuyết  các  mô   ngày giống như các mẫu đạt được ở tuổi 1300 ngày;
               hình B3, EC2-1 và EC2-2 về co ngót dài hạn đối với   các mô hình khác vẫn thấp hơn 25% so với mức độ
               bê  tông  C35/45  tiếp  xúc  với  môi  trường  có  độ  ẩm   biến dạng của mẫu. Al-Saleh [5] đã so sánh các kết
               tương  đối  70%.  Mô  hình  EC2-1  thể  hiện  tốc  độ  co   quả đo thực nghiệm về biến dạng co ngót ở 125 ngày
               ngót nhanh hơn trong giai đoạn ban đầu (đến 1.000   của bê tông thường với các giá trị được dự đoán bởi

                                                                                   ISBN: 978-604-80-9779-0
   127   128   129   130   131   132   133   134   135   136   137